Dạy con kiểu Nhật: PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TRẺ SAU 4 TUỔI
Tế bào não trẻ sơ sinh bắt đầu phát triển từ việc tiếp
nhận tác động từ thế giới bên ngoài, thời kì
đầu phát triển thành các tế bào dạng tế bào Matrick. Ở đây, càng tiếp nhận tác
động từ bên ngoài vào càng nhiều, tế bào não càng trở thành những tế
bào giàu DNA phân hóa thành 2 loại tế bào là tế bào thần kinh (nơ-ron) và tế
bào Gria. Điều quan trọng ở đây là sau
khi phân hóa tế bào thần kinh
(nơ-ron) không hề tăng lên. Tức
là tế bào não đã dừng phát triển. Lúc đó dù có tác động đến thế nào đi chăng nữa
cũng không làm tăng tế bào thần kinh lên được, óc của trẻ đã cố định, không thể
thay đổi được nữa.
Nếu như cha mẹ chúng ta, hay những người đã dạy dỗ
chúng ta đã từng suy nghĩ rèn rũa chúng ta thành những người có ích cho thời đại,
thì chúng ta- những bậc cha mẹ hiện nay- cũng phải biết trước cơ cấu hoạt độngcủa não bộ trẻ em, từ đó có cách giáo dục thích hợp để trẻ phát triển hoàn thiện hơn. Bởi vì phương pháp sai, trẻ phát triển lệch lạc rồi
thì sau này không thể sửa lại được.
Giáo dục như hiện nay không thể có được những em bé ưu
tú. Như tiến sĩ Jouji.W.Beatle thuộc trường đại học Chicago , người đã từng đoạt
giải Nobel đã nói
“Thể chế giáo dục hiện nay đang làm mất đi cơ hội phát
triển của trẻ nhỏ. Là bởi vì chúng sống trong thời đại thiếu tình thương. Khả
năng học tập của trẻ sút kém. Người lớn không có tai nghe lời con trẻ. Đấy là những
điểm phải sửa đổi.”
1) Trẻ 4 tuổi có sức sáng tạo rất phongphú. Trẻ thích sáng tạo rất thích chơi
Tác giả truyện tranh “Các trò chơi trẻ thích”, Kakosatoshi từng nói “ Trong các tác phẩm
của tôi, kể cả sách giáo dục, kể cả sách cho nhi đồng, tôi luôn nhấn mạnh các
câu nói như “ Trẻ em, chơi là
sống” hay là “Trẻ em là thiên tài chơi” Thế nhưng trẻ em Nhật bản hiện
nay không chơi. Vừa là không có chỗ chơi, vừa là không có thời gian chơi, vừa
là không có bạn để mà chơi. Khi đã mất các điều
kiện để chơi như vậy dẫn đến tình
trạng trẻ sống trong thẫn thờ vô cảm. Kết quả là trẻ không có ý muốn chơi gì,
không có ý chí, chẳng quan tâm tới việc gì nữa. Không chơi, không biết chơi,
không muốn chơi dẫn đến trẻ hành động bột phát, không tập trung vào được
một việc gì, không tự chủ định
suy nghĩ, phán đoán, xử lí được điều gì, dẫn đến việc học hành
cũng không cho thành tích cao”.
Mục đích của giáo dục trẻ không chỉ là việc dạy trẻ
thành người thông minh. Chuyện trẻ là số một, mọi môn đều đạt điểm tối đa ở trường
học, chẳng phải là chuyện gì to tát. Cái quan trọng là ở chỗ trẻ có điểm gì mà
các bạn khác không có được. “Cái điểm gì” đó
chính là phần trẻ sẽ cống hiến cho xã hội được.
Thành tích học tập ở trường lúc cao lúc thấp chẳng phải
là điều đáng phải quan tâm lo lắng quá đáng.
Việc thực sự quan trọng là việc nuôi dưỡng cá tính của
trẻ, dạy trẻ có thể tự suy nghĩ, có tư
duy độc đáo. 4 tuổi là độ tuổi sức sáng tạo phát triển đến đỉnh cao nhất.
Chúng ta phải lấy mục tiêu giáo dục con là “dạy con
thành những đứa trẻ có tính sáng tạo”.
Lơ là với việc dạy con, chúng sẽ chỉ dừng lại ở mức có
trí nhớ. Kiểu giáo dục của Nhật từ trước tới nay đều là kiểu này.
Nhật bản được gọi là nước lớn về giáo dục. Song, về nội dung giáo dục lại
không được đánh giá cao cho lắm. Là bởi
vị giáo dục ở Nhật chạy theo kiểu học đối phó với thi cử. Chính vì thế hình thức
học chủ yếu theo kiểu học thuộc. Học với chủ trương vào được trường danh tiếng,
học kiểu học thuộc lòng… đó là những kiểu
học áp dụng cho trẻ em ở Nhật bản.
Kết quả là với những kiểu học đã được trải qua thời đi
học, khi ra đời, người Nhật chỉ giỏi mô
phỏng, bắt chước chứ khả năng sáng tạo, phát kiến cực kì kém. Người Nhật ít người
đoạt giải Nobel cũng có phần nguyên nhân từ kiểu học thuộc lòng này.
Vậy thì làm thế nào để nuôi dạy trẻ thành những con
người không phải chỉ để mô phỏng lại những cái người khác đã làm mà thành những
con người có đầu óc sáng tạo đây?
Tiến sĩ tâm lí học E.P.Trans thuộc trường đại học
Giogia- Mỹ nói “Năng lực tư duy bắt đầu phát triển khi trẻ lên 3, trong độ
tuổi 4 đến 4 tuổi rưỡi đạt đến đỉnh cao nhất và đến 5 tuổi thì suy yếu đi rất
nhanh.”
Để nâng cao khả năng tư duy của trẻ, thì độ tuổi 3-4
tuổi là giai đoạn quan trọng nhất. Ở giai đoạn này, trẻ được dạy bảo tốt sẽ trở
thành người có đầu óc sáng tạo rất tốt.
Vậy công việc cụ thể để dạy trẻ thành người có đầu óc
sáng tạo là gì?
2) Khả năng tư duy mang tính sáng tạo độc
đáo là khả năng thế nào?
Trẻ em thế kỉ 21 hơn ai hết phải là những con người có
đầu óc sáng tạo. Chúng ta muốn dạy trẻ thành những con người có đầu óc sáng tạo,
có khả năng sáng tạo, thì chính chúng ta phải hiểu rõ óc sáng tạo, khả năng
sáng tạo thực chất là cái gì và như thế nào.
Năng lực sáng tạo, đó là khả năng tri thức làm tăng
thêm đồ vật mới,
cách suy nghĩ mới ưu việt hơn vào
thế giới chúng ta hiện đang sống.
Tính sáng tạo, đó là khả năng cơ bản quyết định các việc
ưu việt trên có thế thực hiện được hay không, đó là một tố chất tốt.
Tuy vậy, năng lực sáng tạo không nhất thiết phải có
liên quan tới chỉ số thông minh cao mới được. Bởi vì, để sáng tạo, không thể
không đưa ra những suy nghĩ mới, những câu trả lời mà trước nay không được chấp
nhận.
Vậy dạy trẻ thành người có óc sáng tạo như vậy có phải
là việc khó không? Không, hoàn toàn không khó chút nào cả.
Mọi trẻ em sinh ra đều có sẵn tính sáng tạo ưu việt
đó. Khả năng sáng tạo của trẻ sơ sinh thực ra bắt đầu hoạt động từ khi mới lọt lòng. Những
bước sáng tạo đầu tiên của trẻ đồng thời với việc bắt đầu
hoạt động của các giác quan. Nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, phát âm bằng
miệng, nếm bằng lưỡi, sờ bằng tay, đó đều là những hoạt động sáng tạo của trẻ.
Trẻ 3,4 tháng tuổi thử tóm nắm đồ vật, rồi rung lắc,
bóp, vặn, thả rơi đồ vật. Hay là tóm được món đồ gì cũng cho vào miệng liếm gặm
để khám phá. Đầu óc sáng tạo của trẻ bắt đầu hoạt động rất tích cực từ thời kì này. Trẻ cũng vì thế học được nhiều
điều về đồ vật, thế giới bên ngoài và suy nghĩ.
Tính tư duy sáng tạo đó của trẻ sẽ được phát triển mạnh
mẽ hơn nếu chúng ta biết khích lệ và rèn luyện cho chúng như tôi đã từng trình
bày ở phần trên.
Có thể nói rằng việc tác động lên các giác quan của trẻ
từ lúc mới sinh tới khi được 6 tháng tuổi sẽ quyết định thái độ học tập của đứa
trẻ đó sau này. Nó trở thành người có ý thức học tập, có sức sáng tạo tốt hay ngược lại là những đứa trẻ không có ý
thức học tập và đầu óc không sáng tạo, đã được
quyết định từ khi nó còn là đứa trẻ 6 tháng là vì thế. Cha mẹ làm ngơ với
những ý muốn học hỏi, với những mầm
chồi sáng tạo của trẻ, và sai lầm khi dạy trẻ (làm gì cũng thúc giục nhắc
nhở, không cho trẻ tự chịu trách nhiệm một việc gì, bó buộc trẻ với những lớp ngoại khóa,
câu lạc bộ, không cho trẻ vận động hết mình, bỏ cho trẻ
chơi một mình…) không phát triển hết những khả năng sẵn có của trẻ, thì tự lúc
nào những ý muốn tích cực, ý muốn sáng tạo nơi trẻ cũng biến mất cùng thời gian
và trẻ trở thành những con người nhàm chán.
Ở giai đoạn 9-18 tháng tuổi, trẻ hết sức hiếu động, bị
đè nén trí năng không được kích hoạt phát triển thì sau đó không thể khôi phục
lại được. Ở thời kì này hãy cho trẻ, tạo cho trẻ nhiều tác động từ bên ngoài,
cho trẻ vận động nhiều, nói chuyện nhiều với trẻ. ở trẻ sẽ không mất đi tính sáng tạo ưu việt sẵn
có, bằng không thì trẻ chỉ lớn lên với đầu óc không còn chút sáng tạo
nào nữa.
Để dạy trẻ thành người có tính sáng tạo, nên biết trước
đặc điểm của những trẻ đó xung quanh chúng ta. Biết được, hiểu được điều đó tức
là hiểu được mục tiêu giáo dục và sẽ có nỗ lực dạy trẻ thành những người như vậy.
Đặc điểm của trẻ có tính sáng tạo là
1- Ham hiểu biết
2-Thích thử nghiệm
3-Hay hỏi. Hỏi những câu mà nhiều trẻ thường không hỏi
4-Không thỏa mãn với những câu trả lời qua quít. Hỏi
cho đến khi hiểu rõ mới thôi.
5- Đưa ra nhiều cách nghĩ mới mẻ
6-Thử nghiệm cái gì lần đầu cũng không sợ sệt
7-Hay có suy nghĩ xung đột với bố mẹ, thầy cô, bạn bè
8- Thích độc lập, hay phản đối.
Trẻ có tính sáng tạo thường có đặc điểm như vậy. Thông
thường thì nhiều ông bố bà mẹ đặt tiêu chuẩn lí tưởng cho đứa con của mình là
biết nghe lời bố mẹ, bề trên, không gây gổ với bạn bè, không
vượt qua cái ngưỡng có sẵn… Song theo thuyết E.P.Trans thì “Có sự khác
nhau rất lớn trong quan niệm thế nào là đứa trẻ lí tưởng với đứa trẻ có
tính sáng tạo. Các bậc cha mẹ nên biết trước điều này để tránh đồng hóa 2 khái
niệm đó với nhau”.
Vậy làm thế nào để gợi mở và phát triển năng lực sáng
tạo sẵn có của trẻ?
Cho đến khi trẻ được 4 tuổi thì tôi đã trình bày ở các
phần trước rồi. Ví dụ như thời kì nhũ nhi (sau sinh đến khi được 6 tháng tuổi),
tạo thật nhiều tác động lên các giác quan của trẻ. Thời kì 9 tháng đến 1tuổi rưỡi,
trẻ rất hiếu động thì không nên ngăn cấm trẻ hoạt động, mà nên khuyến khích và
tạo điều kiện giúp trẻ khám phá. Không chỉ gò bó trẻ với những lớp tập thể dục
nhàm chán, mà hãy thả cho trẻ được tự do trườn, bò, vận động ở những chỗ không
có gì nguy hiểm là được.
Luôn quan tâm đến trẻ, ôm ấp vỗ về trẻ để tăng độ thân
thiết khi trẻ được kề da áp thịt với cha mẹ, tạo cho trẻ lòng tin chắc chắn vào
tình yêu thương cha mẹ giành cho chúng. Nói chuyện nựng nịu trẻ từ
khi mới lọt lòng; khi trẻ biết phát âm những tiếng dù chưa phải là những
từ có nghĩa cũng nên nhiệt tình “tiếp chuyện” trả lời nhằm làm tăng thêm ý muốn
nói chuyện giao tiếp của trẻ.
4) Phương pháp giáo dục trẻ hơn 4 tuổi thì
có những điểm quan trọng như sau
①
Khi trẻ hỏi phải nghiêm túc lắng nghe câu hỏi đó. Cùng nghĩ cách trả lời câu hỏi
đó với trẻ, và dạy cho trẻ phương pháp tìm lời giải. Đây là một việc hết sức
quan trọng. Nếu như được gợi mở và phát triển tận tình như vậy, trẻ sẽ rất giỏi
trong việc tự suy nghĩ. Đây là điểm quan trọng nhất.
②
Với trẻ từ 4 tuổi trở lên, nên đặt nhiều câu đố, cho trẻ suy nghĩ tìm cách trả
lời. Câu đố là hiệu quả nhất trong việc
phát triển tư duy, vì nó bắt buộc phải suy nghĩ thật sự mới trả lời được.
③
Phát triển khả năng tập trung của trẻ. Để
làm việc
đó, khi trẻ đang mải mê làm gì,
không được gọi, hỏi làm cắt ngang
sự tập trung đó. Càng không được dùng cái uy của cha mẹ để bắt ép con phải dừng
công việc nó đang tập trung.
④
Chọn đồ chơi có tính hoạt động trí não cho trẻ. Không nên chọn những món đồ
chơi bắt mắt, mà nên chọn những loại đồ
chơi mà khi chơi trẻ tự lắp ghép xây dựng thành, rồi phá đi để làm lại cái khác,
cái mới được thì hơn.
⑤
Không để trẻ trong tình trạng “nhàn cư”.
Cha mẹ cùng chơi với con, tạo cho con những
tháng ngày vui vẻ. Ghi nhận, khen ngợi những việc mà con đã làm, những
suy nghĩ mà con có được.
⑥
Tạo cho con nhiều cơ hội thể nghiệm. Ví dụ
như những công việc mang tính sáng tạo, sáng tác các tác phẩm mỹ thuật chẳng hạn.
⑦ Tiền đồ
để có nhiều suy nghĩ mới mẻ, đó là trí thức
phong phú. Để trẻ có được một kho
tàng trí thức, hãy cho trẻ đọc thật nhiều
sách. Hãy tặng và cho trẻ đọc nhiều sách về khoa học. Không chỉ dừng ở việc thu
nạp kiến thức từ đọc sách, mà nên cho trẻ thử nghiệm được càng nhiều điều trong
sách càng tốt.
⑧
Dạy cho trẻ biết tầm quan trọng của việc biết
nói lên cảm xúc, tâm trạng của
mình. Trẻ ngây thơ nên còn chưa tự tin
vào những suy nghĩ của bản thân. Vì vậy, nhiều khi chúng không nói lên suy nghĩ
trong đầu thành lời được và cũng từ bỏ ý định nghĩ ngợi luôn. Vì thế việc làm
cho trẻ nhận thấy suy nghĩ của chúng là độc đáo là cực kì quan trọng. Trẻ có
nói gì thì cũng không nên cười nó, hãy tạo cho trẻ có cảm giác yên tâm, chẳng
làm sao cả khi nói lên suy nghĩ của mình.
⑨
Dùng trẻ vào các việc với tư cách là một thành viên thực sự. Không vì suy nghĩ
trẻ còn nhỏ chẳng biết làm gì mà kìm hãm khả năng của chúng.
⑩
Hãy cho trẻ quyền tự quyết định những việc thuộc về bản thân chúng. Nên hiểu rằng
việc tự quyết định ăn uống, mặc đồ, đi
đâu là những việc quan trọng. Việc trẻ tự mình quyết định, dẫn theo tự mình
hành động, và tự mình chịu trách nhiệm về việc mình làm. Cha mẹ quyết định việc
này làm việc kia không, trẻ chỉ đơn thuần hành động, sẽ chẳng có chút suy nghĩ,
tư duy nào. Trẻ thành ra con người thụ động. Nếu tạo cho trẻ được tính độc lập,
sẽ không phải lo lắng về việc chúng phản đối.
⑪ Cho trẻ thể nghiệm performance (kiểu thể
nghiệm một mình giải quyết hoàn chỉnh một sự việc) càng nhiều càng tốt. Cha mẹ
không hề trợ giúp, cứ để bằng sức lực, trí não của trẻ tìm cách tự giải quyết sự
việc đó. Bằng sự giúp đỡ của cha mẹ để con có được giải thưởng,
thành tích cao của nhà trường, đó không phải là cách nuôi dưỡng năng
lực sáng tạo của trẻ. Năng lực sáng tạo của trẻ chỉ có thể được phát huy khi trẻ
tự mình, chỉ một mình nó giải quyết và làm được mà thôi.
⑫
Đừng làm cho trẻ sợ bị thất bại. Nhiều cha mẹ không muốn con mình nếm mùi thất
bại thì lần lữa không muốn để con thể
nghiệm làm việc gì. Như vậy trẻ không tin vào cá tính của mình, việc thể nghiệm
chỉ là thể nghiệm thất bại mà thôi. Các nhà khoa học sáng tạo, nhà phát minh,
nghệ nhân, nhà văn… đều là những người
thành công từ việc tự mình thử thách với khó khăn. Nếu
như không bắt tay vào làm những công việc tưởng như là gian khó ấy
thì không có điều gì vĩ đại xảy ra trên cõi đời này cả.
⑬ Khi thử nghiệm việc gì lần đầu tiên, cũng
hãy để trẻ được vui vẻ, không nên bắt ép.Tư tưởng của nhiều cha mẹ cho rằng cứ
để con vào tiểu học rồi thầy cô giáo sẽ phát
huy tính sáng tạo cho con mình là sai lầm.
Khi vào tiểu học, trí sáng tạo của trẻ bị kìm nén nhiều và biến
mất hẳn bởi trẻ phải tập trung vào
các hoạt động tập thể, phải nghe theo lời thầy cô, chứ không phải được phát huy nhờ vào các câu hỏi
thày cô, bài vở đặt ra như cha mẹ chúng vẫn tưởng.
Nếu như trước khi đi học( vào tiểu học) mà trẻ không
có được những suy nghĩ của riêng mình,
lòng say mê vào một việc gì mà chúng thấy thú vị thì sau này cũng chỉ trở
thành những con người bình phàm mà thôi.
Không có nhận xét nào: